A. Các loại kim châm
Chủng loại kim
châm thì rất nhiều, nhưng nói chung thường dùng 3 loại là: hào kim, kim ba cạnh
và kim châm da (xưa có cửu châm, vì trong đó có những loại kim dùng sang phạm
vi ngoại khoa và động tác phức tạp ít dùng nên lược đi).
1. Hào kim
Là loại kim ứng
dụng rộng rãi, thân kim rất nhỏ, mũi kim nhọn hoắt, độ dài kim có các cỡ: nửa
thốn, một thốn, thốn rưới, hai thốn, ba thốn, năm thốn. Loại kim này ứng dụng
vào chữa rất nhiều loại bệnh.
2. Kim 3 cạnh
Làm bằng thép
không gỉ, dài chừng thốn rưỡi đến hai thốn, đầu kim nhọn và có ba cạnh, thân
kim khá thô, mũi kim sắc bén.
3. Kim châm da
Cũng gọi là kim
mai hoa, kim thất tinh, hình nó như cái gương sen hoặc buộc kim thành từng bó
từ 5 hoặc 7 kim nhỏ, 5 cái thì gọi là “ kim mai hoa”, 7 cái thì gọi là “kim
thất tinh”.
B. Luyện cách châm
Khi mới tập cầm
kim châm, đầu tiên cần luyện tập sức ngón tay và luyện động tác vê kim, sau đó
mới châm trên người
1. Luyện sức ngón tay
Lấy mấy tờ giấy
bản gập lại nhiều lớp rồi buộc thành gói chặt chẽ. tay trái cầm gói giấy, tay
phải dùng ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa cầm kim, tập châm lên gói giấy. Lúc
bắt đầu dùng kim nửa thốn, tiến dần lên dùng kim một thốn, hai thốn, ba thốn,
mà luyện tập. Tập đến khi không cần dùng sức cũng có thể vê tiến kim được, lúc
ấy mới tạm gọi là biết châm, vê, tiến kim nhanh trên da người được.
2. Luyện tập vê kim
Buộc một gói
bông thành hình cầu, dùng chỉ quấn chặt lại thành mươi vòng thật tròn, tay trái
cầm quả bông, tay phải cầm kim như nói ở trên, đặt kim lên quả bông, một lần
đếm, một lần vê, một lần ấn, như thế mà luyện tập. Phải luyện tập công phu đến
khi nào vê tiến kim, vê lùi kim thật tự nhiên, lúc bấy giờ châm trên người mới
không thấy khó khăn. Khi vê, ngón tay chỉ nhích qua nhích lại trong khoảng đủ
cho thân kim xoay nửa vòng tròn là được. Không nên xoay thân kim quá mức, xoay
quá sẽ làm cho mặt da xoắn lại, gây cảm giác khó chịu, có hại cho châm cảm.
C. Chuẩn bị trước khi châm
Kiểm tra kim:
Trước khi châm cần kiểm tra kim xem có chỗ bị rạn nứt, chỗ cong gập hay không?
Có gỉ hay không? Mũi kim có cong hay không? Nếu mũi kim có những tình trạng
trên thì loại ra, chọn lấy những kim tốt, để khi châm và rút kim bớt khó khăn,
đề phòng sự cố gẫy kim.
Đem kim thả vào
nồi nước đun sôi thêm 10 phút là được.
Chọn xem cần
châm mấy huyệt, mỗi huyệt sâu bao nhiêu, căn cứ vào người bệnh gầy béo mà lấy
kim dài, ngắn cho vừa.
Tùy theo nơi
phải châm mà đặt tư thế người bệnh cho phù hợp, tư thế phải tự nhiên mới giữ
được lâu; dặn dò người bệnh không được động đậy khi châm. Ví như châm huyệt ở
đầu, mặt, bụng và tứ chi, thường phải nằm ngửa; châm các huyệt ở cạnh đùi
thường là nằm nghiêng, châm ở đầu mặt và tứ chi cũng có thể ngồi ngay ngắn hoặc
ngồi tựa ngửa cổ. Chọn huyệt vị tốt rồi, dùng móng tay ấn huyệt vị thành dấu
chữ thập (+) để ghi nhớ. Hai tay thầy thuốc phải được sạch khô, trước khi châm
dùng cồn 75 độ xoa lên tay từ 2 đến 3 phút. Dùng bông cồn xoa lên huyệt vị
người bệnh, từ giữa xoay dần ra ngoài sát trùng để đề phòng nhiễm trùng.
Đối với người
bệnh mới châm lần đầu, phải giảng giải để người bệnh thấy rằng châm không đau,
không nên sợ sệt, để đề phòng bệnh nhân vì sợ hãi mà say kim.
Đối với người
bệnh suy nhược, hoặc người đã từng say kim thì tốt nhất là để ở tư thế nằm
ngửa. Trong khi châm mà người bệnh thấy có váng đầu hoa mắt, ra mồ hôi, buồn
nôn, thì lập tức ngừng vê kim rồi xử lý những biện pháp chống say kim. Trong
phần huyệt vị có ghi độ châm sâu của từng huyệt, đó là nói ở người lớn. Khi
châm trẻ em cần phải châm nông, các huyệt chỉ nên châm đến 2 hay 3 phân thốn là
được, đồng thời phải chú ý không cho giẫy giụa để đề phòng tiến, rút kim khó
hoặc gãy kim.
Đối với người
chửa, ngoài những huyệt cấm châm đã quy định ra, các huyệt khác ở đầu ngón tay,
ngón chân là những huyệt rất nhạy cảm như Thiếu thương, Thương dương, Trung
xung, Ẩn bạch, Lệ đoài thì tốt nhất là không châm.
D. Góc độ châm
Do sự khác nhau
về huyệt vị và yêu cầu của bệnh, vì thế góc độ châm kim cũng có khác nhau. Nói
chung, chia ra làm ba loại là: châm đứng kim, châm nghiêng kim và châm ngang
kim.
1. Châm đứng kim
Là thân kim
vuông góc với mặt da mà đâm. Cách châm này ứng dụng rất rộng rãi. Phàm huyệt vị
ở những nơi tầng cơ đầy đặn đều sử dụng.
2. Châm nghiêng
Là thân kim để
nghiêng nửa góc vuông mà đâm vào. Cách châm này phù hợp với những nơi tầng cơ
nông, mỏng, hoặc các tạng phủ, cơ quan trọng yếu như vùng đầu, quanh ổ mắt, ngực.
3. Châm ngang
Cũng gọi là châm
dưới da, là thân kim để nằm ngang với mặt da mà châm. Cách châm này thường sử
dụng ở huyệt vị trên mặt và một số tạng khí trọng yếu.
Đ. Cách châm hào kim (hào châm)
Cách tiến kim.
Tiến kim cũng gọi là vào kim, có ba cách rất thông thường:
1. Cách vê vào: Là một cách rất thông
thường đối với hào kim.
Dùng ngón tay
phải giữ cán kim, mũi kim nhằm đúng chỗ huyệt, nhè nhẹ đặt vào da, dùng áp lực
làm cho mũi kim đâm vào biểu bì, sau đó từ từ vê kim xuống. Cách vê này cần dựa
vào tay trái phối hợp, thao tác của tay trái như sau (H27).
a. Áp một ngón cái: Đầu ngón cái tay
tría áp lên huyệt vị định châm, tay phải cầm kim, mũi kim dựa và móng ngón tay
cái mà đâm vào huyệt và vê tiến kim xuống. Cách này hợp với châm kim ngắn như
châm huyệt Hợp cốc, Liệt khuyết.
b. Áp hai ngón tay: Trước hết là cầm
bằng hai ngón tay cái và trỏ của tay trái kẹp lấy phía trên mũi kim một ít,
nhằm vào huyệt vị, ngón tay phải cầm cán kim, sau đó hai ngón tay cái, trỏ tay
trái ấn xuống một cái, đồng thời tay phải đưa mũi kim sâu vào huyệt vị rồi vê
kim tiến xuống. Cách châm này hợp với kim dài châm ở huyệt hoàn khiêu, túc tam
lý…
c. Áp kẹp hai ngón tay giữ huyệt: Những
nơi da thịt rất mỏng như huyệt ấn đường, hoặc huyệt nhân trung ở mặt khi tiến
kim thì dùng hai ngón tay trỏ, cái tay trái bóp da chỗ huyệt vị lại cho lồi
lên, tay phải châm kim vào.
2. Cách dùng ống phóng kim
Lấy một hào kim
và một ống nhỏ, hào kim phải dài hơn ống nhỏ một ít, đút kim vào trong ống đó,
mũi kim và miệng ống ngang nhau, ấn lên trên huyệt vị định châm, tay trái giữ
ống, rồi dùng ngón trỏ tay phải gõ lên cán kim chỗ lộ ra phía miệng trên của
ống, làm cho mũi kim đâm nhanh vào, bây giờ rút ống ra, vê tiến kim. Cách tiến
này phù hợp với người sợ đau và trẻ em.
3. Cách chích kim
Là dùng kim ba
cạnh đâm thật nhanh cho sâu khoảng 2-3 phân thốn. Cách chích này cần phải có
tay trái hỗ trợ việc cố định nơi chích thì mới dễ chích.
Khi châm kim vào
huyệt vị đạt đến độ sâu nhất định, người bệnh thường thấy sinh ra một cảm giác
buốt, tê, trướng, hoặc nằng nặng, đồng thời dưới ngón tay thầy thuốc cũng cảm
thấy tụ, nặng. Như thế, đông ý gọi là “đắc khí”. Sau khi đắc khí, căn cứ vào
bệnh tình, chọn lấy thủ phápkhác nhau.nếu như không đắc khí thì nhè nhẹ nâng
lên, ấn xuống hoặc vê kim cũng có thể đắc khí được. Nhưng cũng có người, có
huyệt không nhất thiết phải đắc khí, chỉ lưu kim bất động cũng có hiệu quả
chữa.
Do nơi châm kim
nông, sâu khác nhau, cũng như phương hướng vê, góc độ châm, sức nâng ấn nhanh
chậm, mạnh nhẹ khác nhau, đặc biệt là thể chất người bệnh ở mức độ nhậy cảm
khác nhau, cảm giác châm chích co khi rất nhỏ nhẹ, có khi rất rõ rệt, có khi
chỉ ở chỗ huyệt vị, co khi lan toả ra các nơi khác, có khi chuyển dần đến những
nơi rất xa. Nói chung lại, thủ pháp phù hợp, cảm giác nhanh chóng, thì kết quả
chữa cũng rất rõ ràng.
G. Thủ pháp bổ tả của châm kim
Thủ pháp châm
chích nói chung có hai loại: một là thủ pháp bổ, hai là thủ pháp tả. Bổ hoặc tả
là căn cứ vào thể chất của ngươì bệnh và bệnh tình mà quyết định. Nói chung là
đối với người bệnh có thể chất khoẻ mạnh thì dùng tả pháp, người bệnh thể chất
hư nhược thì dùng bổ pháp. Đối với các loại bệnh tình thuộc thực, thuộc nhiệt,
thuộc cấp tính thì dùng tả pháp, các bệnh thuộc hư, thuộc hàn, thuộc mạn tính
thì dùng bổ pháp. Đối với các loại bệnh tình nóng lạnh xen kẽ, hoặc hư thực
cũng thấy thì dùng thủ pháp bình bổ bình tả.
Thủ pháp bổ tả
của châm chích có rất nhiều cách, ở đây xin giới thiệu những thủ pháp bổ tả cơ
bản. Thủ pháp bổ tả cơ bản là những thao tác khác nhau, mà ở mỗi thao tác đem
lại những hiệu quả khác nhau. Nó có thể được sử dụng riêng rẽ, có thể dùng kết
hợp với nhau, từ kết hợp ít đến kết hợp nhiều cách một lúc, tùy theo tài nghệ
của người thầy và yêu cầu của bệnh tình. Có 8 loại thủ pháp bổ tả cơ bản là: Từ
tật, khai bế, niệm chuyển, đề sáp, cửu lục, hô hấp, nghênh tuỳ, mẫu tử
Thao tác, hiệu
quả và ứng dụng của từng thủ pháp như sau:
1. Từ tật, là thao tác tiến kim, rút
kim nhanh hay chậm, bổ, tiến kim từ từ, rút kim nhanh hơn, làm cho dương khí từ
ngoài theo kim vào trong sâu một cách êm êm, và khi kim ra thì khí ở trong
không kịp theo kim mà thoát ra ngoài, đó là cách bổ, tả, tiến kim nhanh, rút
kim từ từ, làm cho khí ở ngoài không vào trong thêm, khí ở trong theo kim từ từ
thoát ra ngoài, đó là cách tả. Từ tật pháp được ứng dụng trong tất cả mọi
trường hợp.
2. Khai bế là thao tác sau khi rút kim
có bịt lỗ kim, hay không bịt lỗ kim ngay tức thì. Bổ là sau khi rút kim, kịp
thời dùng ngón trỏ tay trái bịt ngay lỗ kim và day nhè nhẹ mấy lần, làm cho lỗ
kim kín lại, khí ở trong không thoát ra được. Tả là khi rút kim thì vừa rút vừa
lắc ngang thân kim nhè nhẹ làm cho lỗ kim hơi giãn rộng ra, khi kim đã thoát ra
khỏi mặt da, để một lát cho khí có thời gian thoát ra ngoài bớt, sau đó mới sát
trùng và bịt kín lỗ kim lại, phép khai bế có thể ứng dụng trong tất cả mọi
trường hợp. Chỉ riêng hai phép từ tật và khai bế kết hợp với nhau cũng đem lại
hiệu quả bổ hư, tả thực rất mạnh mẽ.
3. Niệm chuyển, là thao tác vừa đếm vừa
vê, đếm một tiếng lại vê kim một lần, đếm số lẻ trước, số chẵn sau. Khi đếm số
và vê kim có chia ra bổ tả như sau: Bổ là khi vê cán kim xoay ngược chiều kim
đồng hồ thì ngón tay cái lùi hơi nhanh và hơi mạnh hơn, khi vê cán kim xoay
thuận chiều kim đồng hồ thì ngón tay cái tiến hơi yếu và hơi chậm hơn. Sức vê
hơi mạnh hay hơi yếu về hướng phải hay hướng trái có tác dụng như dùng bánh
lái, tay chèo để đưa khí trong đường kính được đúng hướng và tập trung, giống
như con thuyền đi đúng giữa dòng nước chảy. Ứng dụng của niệm chuyển vào những
bệnh chứng khí tán loạn là chính, nhưng cũng thông dụng kết hợp trong khi tiến
kim, rút kim cho dễ dàng. Nó có thể được ứng dụng đơn độc để kích thích kinh
khí trong thời gian lưu kim, cũng có khi kết hợp với tất cả các thủ pháp khác
trong khi thao tác châm kim.
4. Đề sáp là cách nâng ấn kim. Sau khi
kim được châm vào huyệt vị đến độ sâu đã định, ngón tay cầm kim nâng kim lên
rồi ấn kim xuống trong phạm vi tổ chức cơ thể. Bổ là trước nông sau sâu, nhẹ
tay khi nâng nặng tay khi ấn, làm cho khí ở tầng nông của kinh mạch theo sức
mạnh mà ép vào tâng sâu kinh mạch. Tả là trước sâu sau nông, mạnh tay khi nâng,
nhẹ tay khi ấn, làm cho khí ở tầng sâu kinh mạch ép ép mạnh từ trong ra tầng
nông của kinh mạch. Ứng dụng của phép nâng ấn nhằm giải quyết tình trạng mất
cân bằng trong quan hệ giữa biểu và lý.
5. Cửu lục là cách đếm số lần làm thao
tác. Số lần lẻ là dương, số lần chẵn là âm, số lẻ gồm 1, 3, 5, 7, 9, số chẵn
gồm 2, 4, 6, 8. Theo truyền thống, người ta lấy số 9 làm số dương tiêu biểu, số
6 làm số âm tiêu biểu. Khi thao tác kim châm như vê hoặc nâng ấn kim, số lần
thao tác 9 là bổ: số lần thao tác 6 là tả. Bổ là dương số, tả là âm số, vì vậy
số dương cũng chỉ kết hợp với cách vê bổ, nâng ấn theo cách bổ; số âm chỉ kết
hợp theo cách vê tả, nâng ấn theo cách tả. Không có trường hợp nào vê tả lại
làm số lẻ, hoặc ngược lại,….Nếu bệnh tình nghiêm trọng, người ta có thể nâng số
6 hoặc số 9 lên nhiều lần như 6x3;6x 6; 6x9…
6. Hô hấp là cách khi tiến hay rút kim,
bảo người bệnh thở ra hay hít vào theo lệnh của thầy thuốc. Bổ là khi thở ra
thì tiến kim, khi hít vào thì rút kim. Khi thở ra, khí trong con người còn lại
ít, ta tiến kim vào, khí theo kim vào, đó là thêm cho cái ít. Khi hít khí vào,
khí trong con người có thừa, ta rút kim ra, khí có thể theo kim ra chút ít cũng
không làm hại cái có thừa. Tả là khi hít vào ta tiến kim, khi thở ra ta rút
kim. Khi hít khí vào ta tiến kim, khí theo kim vào là thêm cái có thừa, việc
thêm đó là làm thêm có hại; ngược lại; khi thở khí ra, khí trong con người còn
lại rất ít, ta lại rút kim ra, khí theo kim ra thêm đã làm hại thêm cái còn ít.
Bổ tả theo hô hấp được ứng dụng để chữa các loại bệnh chứng về khí hư, thực.
7. Nghênh tuỳ là cách châm kim thuận
hay nghịch chiều kim khí tuần hành. Mũi kim ngược chiều đường kinh là tả, mũi
kim thuận chiều đường kinh là bổ. Ngoài ra, người ta còn theo đó suy ra để tiến
hành châm thứ tự thuận nghịch cho một số huyệt trên cùng một đường kinh. Nói
chung châm thuận đường kinh hay thuận thứ tự đều là thúc cho kinh khí đi nhanh
hơn; châm ngược đường kinh hay ngược thứ tự đều làm giảm tốc độ kinh khí. Làm
giảm cái nhanh, mạnh là tả; làm tăng vào cái chậm, cái yếu là bổ.
8. Mẫu tử là phép chữa bệnh theo quan
hệ ngũ hành tương sinh giữa các tạng phủ và quan hệ ngũ hành tương sinh giữa
ngũ du huyệt. Khi một kinh có bệnh, muốn bổ, người ta chọn huyệt trên đường
kinh của một tạng phủ có hành sinh ra hành của tạng phủ có bệnh, hoặc có huyệt
có hành sinh ra hành của tạng phủ có bệnh. Ví dụ: Tạng có bệnh là can, hành
mộc, muốn bổ, ta chọn các huyệt trên kinh thận, hành thuỷ (thuỷ sinh mộc), hoặc
chọn huyệt mang hành thuỷ trong ngũ du huyệt trên kinh can là huyệt Khúc tuyền.
Cũng bệnh can, ta muốn tả, chọn những huyệt trên kinh tâm, hoặc chọn những
huyệt mang hành hoả trên kinh can là huyệt hành gian. Ứng dụng của phép bổ tả
mẫu tử là để chữa những bệnh chứng từ một tạng phủ chuyền sang một tạng phủ
khác. Người ta theo quy luật tương ứng giữa thiên can của ngày, giờ với hoạt
động của tạng phủ mà lập ra cách chữa theo thời gian, gọi là phép “Tý Ngọ lưu
trú”.
H. Cách rút kim
Cách rút kim còn gọi là cách khởi kim. Khi làm
xong các bước theo thứ tự thao tác châm kim như: Tiến kim, làm thủ pháp bổ tả,
lưu kim, là đên việc phải rút kim. Khi rút kim, tay trái cầm viên bông cồn áp
sẵn lên mặt da cạnh kim, tay phải từ từ vê cán kim và lùi kim (tuỳ theo phép bổ
hay tả mà có cách rút kim khác nhau như đã nêu ở thủ pháp từ tật và khai bế ở
trên). Khi kim đã ra khỏi mặt da thì dùng ngay miếng bông cồn trên mặt da cạnh
kim để sát trùng lỗ kim và ấn day nhè nhẹ nhằm bịt kín lỗ kim. Trường hợp khi
rút kim ra khỏi mặt da thấy lỗ kim có chảy máu thì bất luận là thủ pháp thao
tác vừa dùng là bổ hay tả đều phải kịp thời dùng miếng bông cồn đó ấn day tại
lỗ huyệt nhiều lần để cầm máu và bịt kín lỗ kim.
I. Xử lý khi rút kim khó
Nói chung khi rút kim chẳng khó khăn gì. Nhưng nếu
người bệnh thay đổi tư thế trong khi lưu kim, sẽ làm cho thân kim cong, khó rút
ra, tức là không thể vê kim khi kim còn ở sâu, cũng không thể lôi kim lên được.
Lúc này cần nói để người bệnh khôi phục lại tư thế như lúc châm, bây giờ quan
sát hướng kim cong, dùng ngón trỏ, ngón cái tay trái ấn mặt da xuống, ngón tay
phải cầm cán kim làm cho phương hướng thuận theo khú cong, rồi nhịp nhàng nâng
ấn, từ từ rút kim lùi ra, không được dùng sức mạnh mà giật kim ra. Nếu như bắp
thịt cương tụ làm cho thân kim khó lui, tới khi rút kim thì ấn sâu kim thêm từ
0,1 đến 0,2 thốn, rồi làm thủ pháp nâng ấn, tức thì có thể rút kim ra. Nếu như
vẫn không rút kim được, dùng một cây kim khác châm vào lân cận, hoặc hơi xa
huyệt vị một ít, kim vào rồi thì nâng ấn mấy cái, làm cho cơ tại chỗ mềm ra và
có thể rút cây kim trước đó vốn khó rút ra. Nếu như người bệnh sợ đau không
muốn châm thêm một kim nữa, thì người thầy thuốc dùng móng tay bấm xung quanh
chỗ kim mấy cái, làm cho mất trạng thái cương tụ cơ bắp, cũng dễ rút kim ra.
Có trường hợp khi rút kim ra gần hết, chỉ còn dính
rất ít phần mũi kim ở mặt da, hoặc mũi kim ra khỏi mặt da nhưng còn dính theo
một sợi dai dẳng, không thể lôi kim ra được. Đó là trường hợp chất dịch trong
tổ chức cơ thể vùng kinh mạch không bình thường, nên khi rút kim dịch bám theo
mũi kim đã bị keo hoá. Gặp trường hợp như thế, tuyệt đối cấm không được lôi
mạnh hoặc dùng dao kéo cắt rời ra, mà phải lấy miếng bông gòn thấm ướt cồn hoặc
nước đã đun sôi để âm ấm đặt vào mũi kim, đợi mấy giây cho chất keo bị hoá
lỏng, mũi kim tự sẽ rời ra.
K. Xử lý say kim
Hiện tượng say kim thường xảy ra ở những bệnh nhân
mới châm lần đầu, ở người có tâm lý sợ đau, người trước khi châm bị quá mệt,
quá đói, quá no, hoặc cũng do khi châm làm thủ pháp quá mạnh.
Chứng trạng của say kim là: Sau khi cắm kim, người
bệnh thấy váng đầu, hoa mắt, nôn nao, buồn nôn. Nặng hơn thì thấy sắc mặt trắng
bợt, chân tay lạnh toát, trên mình ra mồ hôi lạnh, thậm chí té ngã, mất tri
giác.
Phương pháp xử lý: Khi thấy bệnh nhân có hiện
tượng say kim, phải ngừng ngay việc tiến kim, tốt nhất là rút hết kim. Say kim
nhẹ thì đợi một lát cho uống nước ấm cũng có thể tự phục hồi bình thường. Nặng
thì rút hết kim ra, đặt người bệnh nằm ngay ngắn, ngang bằng, dùng ngón tay cái
bấm huyệt Nhân trung, làm cho người bệnh có cảm giác đau đớn, nhanh tỉnh lại,
cho bệnh nhân uống thêm nước ấm nóng.Nếu thấy mạch ngừng đập thì dùng kim châm
huyệt Nhân trung, Thái xung và hô hấp nhân tạo đến khi thấy mạch chuyển lại mới
nghỉ. Để nằm yên một lúc, cho uống nước đường ấm nóng sẽ từ từ trở lại bình
thường.
L. Kim ba cạnh (tam lăng châm)
Thao tác kim ba cạnh là lấy việc chích nhanh, nhẹ,
cho ra máu làm đặc điểm.
1. Có ba thao tác
a. Chích điểm: lấy
việc nhanh nhe, chích điểm ở huyệt vị cho ra máu làm mức độ.
b. Chích tán: Là
chích nhanh nhe, chích nhiều điểm ở một vùng, lấy ra máu làm mức độ, thường
dùng ở các bệnh biến cục bộ ứ huyết sưng đỏ.
c. Chích rạch: Rạch
phá da ở cục bộ bệnh biến là được.
2. Chú ý sự cố
Lượng máu không nên cho ra quá nhiều. Đối với
người bệnh mà cơ địa dễ chảy máu, thì cấm dùng cách chích này. Dùng kim ba cạnh
chích máu chỉ thích hợp với loại bệnh nhiệt, bệnh viêm a-mi-đan, các bệnh ứ
huyết làm sưng đỏ cục bộ.
M. Kim châm da (bì phu châm)
1. Thao tác châm da nói chung có hai phần
a. Vùng gõ kim là
trên đường kinh bàng quang thuộc khu vực trên lưng. Cũng có thể gõ trên các
kinh khác và cục bộ.
b. Sức gõ là dùng sức
của cổ tay, theo thứ tự mà gõ, khoảng cách gõ đều đặn, người bệnh thấy hơi đau
thì dừng.
2. Đề phòng sự cố: Không được gõ lúc
nặng lúc nhẹ, đề phòng máu ra nhiều. Phép này phù hợp với bệnh thần kinh suy
nhược, bệnh đường ruột mạn tính, viêm da do thần kinh, bệnh thần kinh ngoại
biên.
ST
0 Response to "Cách châm cứu"
Đăng nhận xét